THÔNG TIN TÀI LIỆU
- Trường: Viện khoa học thể dục thể thao
- Tác giả: Nguyễn Đăng Trường
- Phân loại tài liệu: Luận án / Ngành: Giáo dục học / / Chuyên ngành Cao học: Giáo dục học
- Năm: 2022 / Số trang: 224 / Định dạng: PDF
- Từ khóa tìm kiếm: 16 tuổi, 17 tuổi, Bài tập phát triển sức bền, Bài tập sức bền, Bộ Công an, Cự ly trung bình, Điền kinh, Nam vận động viên, Phát triển sức bền, Sức bền, Vận động viên
- /
MỤC LỤC TÀI LIỆU
TÓM TẮT NỘI DUNG
Thể thao thành tích cao có vị trí quan trọng trong việc phát triển thể dục thể thao (TDTT) nói chung, nâng cao sức khỏe và năng lực con người, có tác dụng to lớn trong việc tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc và góp phần nâng cao uy tín của địa phương, đất nước. Điều 31, Luật TDTT xác định “Thể thao thành tích cao là hoạt động huấn luyện và thi đấu thể thao có hệ thống của huấn luyện viên, vận động viên nhằm đạt được thành tích, kỷ lục thể thao”. Do vậy, thể thao thành tích cao là hoạt động tập luyện và thi đấu của vận động viên (VĐV); trong đó, thành tích cao, kỷ lục thể thao được coi là giá trị văn hóa, là sức mạnh và năng lực của con người; nhà nước phát triển thể thao thành tích cao nhằm phát huy tối đa khả năng về thể lực, ý chí và trình độ kỹ thuật của VĐV để đạt được thành tích cao trong thi đấu thể thao. Phát triển thể thao thành tích cao là một nhiệm vụ chính trị nhằm phát huy truyền thống của dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân, đề cao sức mạnh ý chí tinh thần, tự hào dân tộc, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của dân tộc Việt Nam [43]. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến phát triển sự nghiệp TDTT. Bộ Chính trị Ban bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01/12/2011 về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng tạo ra bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh “Đầu tư cho thể dục, thể thao là đầu tư cho con người, cho sự phát triển của đất nước” [7].
Chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đến năm 2020 cũng xác định “…Mở rộng quá trình chuyên nghiệp hóa thể thao thành tích cao. Đổi mới và tăng cường hệ thống đào tạo VĐV trẻ” [55]. Điền kinh là môn thể thao có lịch sử lâu đời nhất, được ưa chuộng và phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Với nội dung phong phú và đa dạng, Điền kinh chiếm một vị trí quan trọng trong các chương trình thi đấu của các đại hội thể thao Olympic quốc tế và trong đời sống văn hóa thể thao của nhân loại.
Ngày nay, cuộc tranh tài các môn thể thao nói chung và Điền kinh nói riêng ngày càng quyết liệt. Các kỷ lục thế giới của Điền kinh, bơi lội liên tiếp phá vỡ và nhiều kỷ lục mới được thiết lập trong các kỳ Đại hội Olympic, giải đấu thế giới, châu lục và khu vực. Do đó công tác đào tạo, huấn luyện VĐV có vai trò rất quan trọng.
Chiến lược phát triển TDTT Việt Nam đã xác định Điền kinh là môn thể thao trọng điểm loại 1 và được đầu tư trọng điểm dài hạn. Tại các kỳ đại hội thể thao SEA Games, Asiad điền kinh là một trong những môn thể thao gặt hái được nhiều thành công đóng góp cho thành tích vẻ vang của thể thao nước nhà với nhiều huy chương như: Kỳ SEA games 18 năm 1995 đạt 01 huy chương vàng đầu tiên của VĐV Vũ Bích Hường, đến SEA Games 22 năm 2003 đạt 8 huy chương vàng, đến SEA Games 28 năm 2015 Điền kinh Việt Nam đạt 11 huy chương vàng, phá 3 kỷ lục và giành 2 chuẩn Olympic, trong đó có những VĐV tiêu biểu nổi bật là Nguyễn Thị Hương, Trương Thanh Hằng, Vũ Văn Huyện, Nguyễn Thị Huyền…
Những thành tích này đã từng bước khẳng định vị thế Điền kinh là môn thể thao mũi nhọn, trọng điểm của Việt Nam. Tuy nhiên, để môn Điền kinh tiếp tục vươn xa hơn nữa cần có chủ trương, định hướng khoa học, cần có một quy trình đào tạo VĐV hoàn chỉnh và toàn diện. Toàn diện tức là phải chuẩn bị cho VĐV đầy đủ các phẩm chất chuyên môn và những điều kiện đảm bảo cho công tác đào tạo VĐV. Muốn vậy phải xây dựng được một kế hoạch huấn luyện đào tạo VĐV Điền kinh dài hạn từ khâu tuyển chọn, huấn luyện đến thi đấu ở các câu lạc bộ, đơn vị huấn luyện cấp địa phương.
Điền kinh là môn thể thao tổng hợp gồm nhiều nội dung khác nhau: Nhảy, ném đẩy, các nội dung phối hợp và các nội dung chạy và đi bộ, ngay trong chạy lại được chia thành nhiều cự ly khác nhau: Chạy ngắn, chạy trung bình, chạy vượt chướng ngại vật, chạy dài và marathon, mỗi cự ly có những đặc trưng khác nhau về công suất hoạt động, kỹ chiến thuật, mức đóng góp hệ năng lượng…
Nội dung chạy CLTB của Bộ Công an trước đây được xem là thế mạnh, là nội dung mục tiêu đạt huy chương tại các giải vô địch quốc gia. Tuy nhiên, thời gian gần đây thành tích của đơn vị không được duy trì liên tục và có dấu hiệu giảm sút. Nhiều nguyên nhân được ban huấn luyện đưa ra và đưa ra một số nhận định: yếu tố sức bền của nhóm VĐV chạy CLTB còn hạn chế; kế hoạch huấn luyện chưa hợp lý; phân chia thời gian huấn luyện các tố chất thể lực chưa phù hợp; đặc biệt nguyên nhân chính được xác định là thực trạng sử dụng bài tập còn đơn điệu, chưa có hệ thống bài tập đa dạng để phát huy được tối đa năng lực sức bền cho VĐV chạy cự ly trung bình lứa tuổi 16-17 Bộ Công an. Do vậy, việc cấp bách và cần thiết hiện nay đối với nam VĐV điền kinh cự ly trung bình lứa tuổi 16-17 Bộ Công an là phải nghiên cứu được hệ thống bài tập phát triển sức bền để có thể cải thiện, nâng cao được thành tích thi đấu. Đến nay, đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu đến huấn luyện sức bền cho VĐV các môn thể thao như: Nguyễn Danh Hoàng Việt (2004), Nguyễn Đương Bắc (2007), Phan Thanh Hài (2010), Trần Duy Hòa (2012), Nguyễn Duy Quyết (2012)…[6], [29], [45], [74]…
Những công trình trên được tiến hành nghiên cứu trên các VĐV của các môn thể thao có trình độ tập luyện ở các lứa tuổi và giới tính khác nhau. Riêng môn Điền kinh đáng chú ý nhất là các đề tài “Nghiên cứu khả năng phù hợp tập luyện (dưới góc độ sư phạm) nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tuyển chọn và dự báo thành tích của VĐV trẻ chạy 100m ở Việt Nam” của tác giả Đàm Quốc Chính, đề tài “Tuyển chọn và định hướng thể thao đối với VĐV trẻ trong chạy CLTB và cự ly dài” của tác giả Nguyễn Đại Dương và đề tài “Mô hình hóa các chỉ tiêu về thể lực chuyên môn của VĐV xuất sắc môn chạy 800m” của tác giả Nguyễn Tuấn Anh, đề tài “Nghiên cứu phát triển sức bền tốc độ cho nam VĐV chạy cự ly ngắn (100 – 200m) ở giai đoạn chuyên môn hoá ban đầu” của tác giả Đặng Hoài An (2013), đề tài “Xác định quan hệ giữa thành tích thi đấu với chức năng sinh lý, tố chất thể lực, kỹ chiến thuật của VĐV chạy CLTB ở lứa tuổi 16- 18” của tác giả Trịnh Toán, đề tài “Phát triển sức bền cho học sinh trung học phổ thông” của Lê Tiến Dũng (2014)…, [12], [17], [48]. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu về các bài tập phát triển sức bền cho nam vận đông viên cự ly trung bình lứa tuổi 16-17 Bộ Công an.
Trên cơ sở phân tích tầm quan trọng và tính bức thiết của vấn đề, chúng tôi tiến hành nghiên cứu luận án: “Nghiên cứu ứng dụng bài tập phát triển sức bền cho nam vận động viên Điền kinh cự ly trung bình lứa tuổi 16-17 Bộ Công an”.